Tác phẩm "Lòng yêu nước trong thời đại mới gắn liền với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng" tác giả Trần Quỳnh Trang - Nhân viên phòng Kế toán có chất lượng bài viết tốt. Trân trọng giới thiệu tới quý độc giả.
Đất nước ta trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn liền với những cuộc chiến tranh khốc liệt, một đất nước tuy nhỏ bé nhưng lại chiến thắng được hai cường quốc lớn đó là Pháp và Mỹ. Những chiến công oanh liệt ấy có được một phần nhờ vào sự hy sinh anh dũng của lớp cha ông đi trước, phần quan trọng chính là lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta đã phát huy thành sức mạnh cùng nhau đồng lòng chống lại kẻ thù xâm lược. Và cho đến hiện tại lòng yêu nước ấy vẫn không bị mai một mà ngày càng được phát huy mạnh mẽ hơn trước.
"Em ơi em...
Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời"
Yêu nước là một thứ tình cảm thiêng liêng mà khi được bồi đắp, nó sẽ mang lại cho chúng ta những giá trị tích cực cho cuộc sống của mỗi chúng ta. Biết yêu nước, mỗi cá nhân chúng ta sẽ có một bệ đỡ tinh thần của riêng mình, chúng ta sẽ có một đất nước để dành tình cảm yêu thương, chúng ta sẽ biết trân trọng những gì thuộc về xứ sở, quê hương mình. Lòng yêu nước là một truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của dân tộc ta. Lòng yêu nước được hiểu là tình cảm, tình yêu thương của chúng ta đối với đất nước, quê hương. Cùng với đó là tinh thần, trách nhiệm xây dựng đất nước, quê hương ngày càng giàu mạnh, phát triển. Thế hệ trẻ chúng ta là thế hệ đi sau, là những người đang ở độ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, dám nghĩ, dám làm. Lòng yêu nước đối với thế hệ trẻ chúng ta lời nói phải đi liền với hành động thiết thực, và phải là thế hệ tiếp nối và phát huy truyền thống vẻ vang này.
Ý thức dân tộc, lòng yêu nước là giá trị rất quan trọng đối với mỗi người dân trong việc xây dựng đất nước thành quốc gia phát triển, thịnh vượng, hòa bình, hạnh phúc trước những thách thức ngày càng gia tăng của toàn cầu hóa. Do đó, giáo dục ý thức dân tộc, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, có vai trò vô cùng quan trọng, cần được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống. Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những người dân của một đất nước luôn gắn bó, đoàn kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa và cả dịch bệnh, chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước” và “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Trong tất cả những con dân đất Việt đó, chỉ “trừ một bọn rất ít là đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”. Lịch sử nước ta cho thấy, trước khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, nhưng tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Ðó là các phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Ðông Kinh nghĩa thục, các phong trào Ðông Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Ðảng tiến hành,… Như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp đều đã được đưa ra (từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản) và được lịch sử khảo nghiệm, nhưng đều bế tắc. Điều đó làm cho tình hình nước ta lúc ấy “đen tối như không có đường ra”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ. Yêu nước, thương dân, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sức mạnh truyền thống yêu nước đã hun đúc quyết tâm cứu nước và thôi thúc Người bôn ba tìm đường giải phóng đất nước; cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”… Sau này, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”… Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền, Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vinh quang của Người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu. Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH của Đảng, nhân dân ta tiếp tục đánh thắng thực dân, đế quốc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Trên thực tiễn, từ khi thành lập (1930) đến nay, dù có các tên gọi khác nhau tùy thuộc vào mỗi thời kỳ, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định mình là tổ chức vì nước, vì dân. Đại hội II của Đảng (tháng 02/1951) đã xác định: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam, để đoàn kết và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, để thực hiện dân chủ mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Quan điểm đó còn thể hiện ở Điều lệ Đảng hiện nay. Đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Như vậy, về mặt nhận thức và quan điểm, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán khẳng định mình là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó không chỉ thể hiện trong nhận thức, quan điểm của Đảng mà còn thể hiện trong hành động của Đảng suốt 94 năm qua.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh chính là yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc, thực dân và ngoại bang, giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là lòng yêu nước chân chính, sâu sắc và triệt để. Vì thế, khi thấu hiểu rằng “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính. Trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”, Người đã khơi dậy lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam, coi đó là “chìa khóa vàng” để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức họ, lãnh đạo họ thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, một trong những nhiệm vụ cấp bách được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Thực hiện chủ trương đó, Người đã trực tiếp viết thư, tiếp xúc với nhiều tầng lớp nhân dân để kêu gọi, khơi dậy tinh thần yêu nước. Người tâm tình với các cụ phụ lão: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không” (Trích Thư gửi các cụ phụ lão, ngày 21-9-1945); khuyên nhủ các em nhỏ: “Các em phải thương yêu nước ta” (Trích Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 22-9-1945); báo tin độc lập cho một Việt kiều (tháng 9-1945), Người kêu gọi: “Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp này rất thuận tiện cho ông tỏ lòng trung thành với Tổ quốc”; trong thư gửi cảm ơn các giám mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Người nhấn mạnh: “…các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu”; Người tỏ lòng vị tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe” ... Và những bài học làm người đầu tiên Người muốn trao truyền lại, đó là: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”; “Dân ta phải biết sử ta”. Trong kháng chiến, Người quả quyết: “Đành biết rằng từ đây đi đến cuộc toàn thắng, chúng ta còn phải kinh qua nhiều nỗi khó khăn. Nhưng chúng ta giàu lòng yêu nước, thì chúng ta quyết cứu được nước”. Trong kiến quốc, Người tin tưởng sắt đá, rằng nếu “sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất. Như thế thì: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Kiến quốc nhất định thành công”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Người, trong những năm tháng đấu tranh gian lao ấy, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của mọi người dân Việt Nam đã được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nổi bật tinh thần, ý chí và trí tuệ con người Việt Nam. Đó chính là sức mạnh của lòng yêu nước được hun đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử; không chỉ được bồi đắp mà còn phát triển lên một tầm cao mới, gắn với tinh thần quốc tế trong sáng. Đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính hòa quyện với chủ nghĩa quốc tế cao cả trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đất tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; là lòng nồng nàn yêu nước gắn với sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các đồng chí bạn bè và nhân dân lao động các nước; là phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đấu tranh để “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Đó cũng chính là hiển hiện của những tấm gương yêu nước, anh hùng mà khiêm nhường của biết bao quần chúng ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi; của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mọi lĩnh vực công tác ở cả tiền tuyến và hậu phương,v.v… “Xiềng xích chúng bay không khóa được/ Trời đầy chim và đất đầy hoa/ Súng đạn chúng bay không bắn được/ Lòng dân ta yêu nước thương nhà” - chính điều đó đã kết thành một làn sóng mạnh mẽ, tạo thành sức mạnh tổng hợp, vô song, làm nên những chiến công của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, đưa đất nước ta tới hòa bình, độc lập, thống nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao chói lọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954, “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”. Ngày 7/5/1954, cả nước Pháp dường như chết lặng, im lặng trên chiến trường và im lặng cả trên chính trường. Thất bại tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ “bất khả xâm phạm” đã tạo nên cơn chấn động khiến nước Pháp và cả thế giới rung chuyển. Cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giải phóng hoàn toàn miền Bắc nước ta, mở ra chặng đường phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia. Vì sao một đất nước nhỏ bé lại có thể đánh thắng một kẻ thù xâm lược hùng mạnh và hung hãn của thế giới lúc bấy giờ? Vì sao những chàng trai, cô gái chân đất, áo vải lại giành chiến thắng trước đội quân tinh nhuệ được trang bị vũ khí, khí tài tối tân? Vì sao những chiếc xe đạp thồ lại chiến thắng cả xe vận tải, máy bay? Vì sao những khẩu pháo được kéo lên núi cao, xuống vực sâu bằng sức người lại chiến thắng xe tăng bọc thép?... Đó không chỉ là những hành động anh hùng được tạo nên bởi những người nông dân bình dị, đó không chỉ là tinh thần bất khuất, tuẫn liệt của các lớp lớp thế hệ người dân Việt Nam, đó cũng không phải là bản năng phản kháng thường thấy khi bị chà đạp. Đó thực sự là khát khao của cả một dân tộc về hòa bình, tự do và quyền tự quyết, đó chính là tình yêu đối với đất nước, lòng tự tôn đối với dân tộc, niềm tự trọng của nhân phẩm và thức tỉnh lương tri nhân loại. Kỳ tích Điện Biên Phủ được dệt nên từ những kỳ tích anh hùng cá nhân. Đó là những con người bình dị, nhỏ bé trong nhân dân. Là “những đồng chí chèn lưng cứu pháo, nát thân nhắm mắt, còn ôm”, là “những bàn tay xẻ núi lăn bom, nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”… Và đó không chỉ là bộ đội chủ lực, những chiến sĩ được huấn luyện chiến đấu mà còn là những thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến “Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ… Đèo Lũng Lô anh hò, chị hát”, là những em bé thiếu niên, nhi đồng cùng tham gia giữ làng, giữ bản và dòng máu yêu nước anh hùng luôn chảy trong mạch huyết. Đó cũng chính là kỳ tích, là đỉnh cao của chiến tranh nhân dân. Không có pháo đài nào không thể công phá, chỉ có lòng dân và tinh thần dân tộc là bất khả xâm phạm. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kết tinh sức mạnh của dân tộc Việt Nam được tiếp nối từ đời này qua đời khác và dưới sự lãnh đạo của Đảng được phát huy, tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sức mạnh của đường lối, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Đó là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh của Đảng, với một bộ chỉ huy thao lược, tài ba và những cá nhân, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu, cùng với quân và dân ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc đã nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết rộng rãi, lao động quên mình, chiến đấu dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ, đặt lợi ích của nhân dân, của cách mạng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do. Lời hiệu triệu yêu nước, bảo vệ độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”, hay trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của Đảng đã tác động sâu sắc đến lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, hiếm có dân tộc nào trải qua chiến tranh giành độc lập nhiều như dân tộc ta (chống ngoại xâm và sự đô hộ của ngoại bang). Độ dài về thời gian, tần suất của các cuộc chiến tranh lớn, nước ta lại luôn ở trong thế “nhỏ chống lớn”, “ít địch nhiều” đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí kiên cường, bất khuất và niềm tự tôn của người dân Việt Nam, thể hiện hùng hồn trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, thấm đẫm trong từng câu chữ trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi.... và sau này là khí thế hào hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong thời đại Hồ Chí Minh.
Yêu nước gắn liền với lòng yêu thương con người, yêu đồng bào, yêu thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của dân tộc và trong thời đại ngày nay gắn liền với yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Lòng yêu nước hướng con người đến những giá trị tốt đẹp, thôi thúc ý chí, khát vọng vươn lên, là động lực cho sự phát triển đất nước như Bác Hồ đã từng nói “Yêu nước là thi đua, thi đua là yêu nước, những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Suốt sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng; yêu nước không chỉ ở nhận thức, mà còn phải thể hiện ở hành động. Bác yêu cầu: “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”. Trước khi đi xa, trong Di chúc, Người mong mỏi: “...đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”. Tinh thần yêu nước nồng nàn trở thành sức mạnh to lớn đập tan dã tâm xâm lược của mọi kẻ thù hung bạo, mạnh hơn về khí tài quân sự, quân số, tiềm lực kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập”
Tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết toàn dân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Yêu nước là căn bản, tự lực tự cường, đoàn kết là thuộc tính, biểu hiện bên ngoài của lòng yêu nước, vì yêu nước nên luôn có ý chí vươn lên, vì yêu nước nên luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, vì yêu nước nên chung sức, chung lòng vì mục tiêu chung, trước đây là trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, ngày nay là trong xây dựng, phát triển đất nước. Yêu nước là tình cảm, trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền lợi của mỗi công dân, nhưng muốn yêu nước, trở thành người yêu nước phải đoàn kết, phải có ý thức tự lực, tự cường giữa các cá nhân, giai tầng xã hội. Yêu nước, đoàn kết thống nhất, tự lực tự cường là nhân tố bên trong quan trọng, quyết định sức mạnh của dân tộc, của quốc gia trước mọi thách thức, khó khăn. Tinh thần yêu nước, ý chí tự cường là cơ sở, điều kiện cần, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là điều kiện đủ. Nếu có tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường mà không có sức mạnh khối đại đoàn kết và ngược lại thì cách mạng cũng khó có thể đi đến thắng lợi. Tinh thần yêu nước, ý chí tự cường chính là cơ sở để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngược lại khối đại đoàn kết toàn dân là môi trường lan tỏa, phát huy tinh thần yêu nước và ý chí tự lực tự cường. Các yếu tố này kết hợp lại cùng với một số yếu tố khác như lãnh tụ dẫn dắt, định hướng ngọn cờ chính là những động lực tinh thần có vai trò thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội, đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước là một nhân tố quan trọng tạo thành động lực phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh tinh thần yêu nước là một trong những giá trị, thuận lợi cơ bản của Việt Nam: “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản:... nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...”. Đồng thời Đảng tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước là nội dung quan trọng trong phương hướng, nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết: “đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”. Trên thực tiễn, mục tiêu hành động của Đảng trong mỗi thời kỳ đều thống nhất với mục tiêu của nhân dân, dân tộc ta. Nói cách khác, ý Đảng và lòng dân luôn hòa quyện vào nhau, thống nhất với nhau, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, để giành hết thắng lợi này đến thành công khác. Nếu mục tiêu của Đảng không thống nhất với quyền lợi, lợi ích của nhân dân, dân tộc ta thì Đảng chỉ từ số ít cho đến mấy triệu đảng viên như ngày nay cũng không thể giành được những thắng lợi mang tính thời đại. Đó là thực tế không ai có thể phủ nhận.
Đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Càng khó khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”, để luôn chủ động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vấn đề phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng ta kế thừa và phát triển, cụ thể hơn, mạnh mẽ hơn. Trước hết thể hiện ở việc: Cụm từ “tinh thần yêu nước”, “ý chí tự cường”, “đại đoàn kết toàn dân tộc” được nhắc đến hơn 80 lần trong toàn bộ Văn kiện Đại hội. Đặc biệt, chủ điểm “khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” là một trong những chủ điểm có vị trí, ý nghĩa rất đặc biệt được nhấn mạnh trong nội dung của Nghị quyết Đại hội, cụ thể như sau: Đưa “tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” vào chủ đề của Đại hội, cụ thể: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc…”. Điểm mới ở đây là Đảng đã bổ sung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí” và “kết hợp với sức mạnh thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” để trở thành “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại…”. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia như hiện nay thì việc giữ vững độc lập, chủ quyền, môi trường hòa bình, ổn định, phát triển nhanh, bền vững đóng vai trò quan trọng. Do đó, việc đưa nội dung “phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại…” vào chủ đề Đại hội XIII là cần thiết, đúng đắn, có ý nghĩa quan trọng. Nếu như các kỳ đại hội trước, Báo cáo chính trị không có nội dung trình bày riêng về quan điểm chỉ đạo thì đến Đại hội XIII, Báo cáo chính trị nêu hệ quan điểm chỉ đạo với 5 quan điểm cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành hệ quan điểm thống nhất, bao quát những tư tưởng chỉ đạo lớn đối với toàn bộ công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới. Trong đó ở quan điểm về động lực phát triển, Đại hội nêu: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. So với trước đây, nhận thức của Đảng về động lực phát triển được nâng lên tầm mức mới và ý chí tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc chính là nguồn năng lượng nội sinh to lớn, động lực phát triển chính của một quốc gia trên con đường phát triển. Coi nội dung này như là thành tố trong Mục tiêu tổng quát toàn nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”. Ðại hội XIII không chỉ xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2021-2025 mà còn xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Ðảng), tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và bổ sung nhiều điểm mới; bổ sung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, “kết hợp với sức mạnh của thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” thành “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”. Đại hội XIII đặc biệt chú trọng việc xác định các đột phá chiến lược phù hợp với các điều kiện, yêu cầu của đất nước trong 5, 10 năm tới. Trong đột phá chiến lược thứ ba về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Đảng ta nhấn mạnh nội dung “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điểm đặc biệt của Đại hội XIII là 3 vấn đề: “tinh thần yêu nước - ý chí tự cường - đại đoàn kết dân tộc” luôn đi cùng với nhau, thuộc cùng một chủ điểm, có mối quan hệ gắn bó với nhau, được bổ sung nhiều điểm mới nhằm khơi dậy, phát huy cao nhất tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cùng nhìn lại về những năm cuối 2019 khi dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch COVID-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội… Đó cũng chính là trái ngọt của việc phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước, là kết quả việc thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ chính trị khoá XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng , đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nhu cầu tự thân, nền nếp tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Và hơn bao giờ hết, càng đối diện với khó khăn, thử thách từ thiên tai, địch hoạ và dịch bệnh, mỗi người dân Việt Nam càng phát huy và toả sáng tinh thần yêu nước, chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển bền vững.
Để thực hiện các nội dung, nhiệm vụ nhằm phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và phát huy tinh thần yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tích cực quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển tinh thần yêu nước của người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; cần xác định tầm quan trọng của việc đẩy mạnh tinh thần yêu nước; cụ thể hóa thành các chính sách, phong trào phát triển tinh thần yêu nước đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Việc tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước; phát triển các phong trào thi đua yêu nước luôn được Đảng yêu cầu qua các kỳ Đại hội Đảng; tiếp tục được phát triển trong các văn kiện Đại hội XII của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước yêu cầu: xây dựng lòng yêu nước, với mục tiêu “đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước” và nhiệm vụ “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách”. Việc phát huy tinh thần yêu nước cũng cần được coi là nhiệm vụ của từng cấp ủy, chính quyền các đơn vị, địa phương. Yêu nước trở thành động cơ trước hết để gắn kết toàn thể dân tộc Việt Nam. Yêu nước đồng nghĩa yêu đồng bào, và ở mức cao hơn, gắn bó với bảo vệ chế độ chính trị, sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Cần thực hiện hiệu quả tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tinh thần yêu nước nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bởi ở trong mô hình nhà nước này, tinh thần yêu nước có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Nhà nước cần bảo đảm phát triển mọi lợi ích chính đáng của nhân dân, để nhân dân có cơ hội thể hiện lòng yêu nước; đồng thời có những chế tài nghiêm trị những hành vi hại nước, hại dân. Nhà nước, với các công cụ pháp lý hiệu quả, bảo đảm đường lối, chính sách về phát triển đất nước, nhất là trong kinh tế, được thực hiện hiệu quả, minh bạch, kỷ cương; tạo điều kiện để bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc...
Ba là, công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước cần thúc đẩy, lan tỏa giá trị của tinh thần yêu nước trong toàn xã hội. Cần có sự tổng kết thực tiễn để đề ra lý luận về phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như các giai đoạn tiếp theo. Công tác tư tưởng cần thấu triệt trong nhân dân các nội dung: yêu nước, trước hết là yêu đồng bào, cái gì có lợi cho nhân dân thì phải ra sức làm; mỗi người dân Việt Nam đều phải phát huy tinh thần yêu nước của bản thân, thúc đẩy tinh thần yêu nước của cộng đồng. Đối với doanh nghiệp, đó không chỉ là những hành động, như nộp nghĩa vụ thuế, làm công tác từ thiện,... mà còn phải là đặt lợi ích của người tiêu dùng làm mục tiêu phát triển; đồng thời, đặt mình trong guồng máy chung của nền kinh tế đất nước, tạo thương hiệu quốc gia, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn, thử thách, vận hội với đất nước. Đối với nhân dân, đó là tình làng nghĩa xóm, lối sống nhân nghĩa, ưu tiên sử dụng các sản phẩm trong nước... Đối với đội ngũ cán bộ, công chức đó là ý thức trách nhiệm với công việc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc...
Bốn là, xây dựng tinh thần yêu nước là nội dung quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Cần quán triệt thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo, trong đó có mục tiêu “Giáo dục con người Việt Nam... yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Trong đổi mới giáo dục, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thì nội dung quan trọng cần thường xuyên được thực hiện là giáo dục tinh thần yêu nước để nhân lực, nhân tài được đào tạo ra sẽ phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tăng cường công tác giáo dục truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ bằng các giải pháp: cụ thể hóa thành các chính sách và phong trào thi đua yêu nước với hình thức, nội dung phong phú trên tất cả các lĩnh vực; không dừng lại ở việc tuyên truyền, kêu gọi thông thường mà phải chỉ dẫn các hành động cụ thể; chú trọng đổi mới phương pháp dạy, học, kiểm tra đánh giá các môn học trong nhà trường, đặc biệt là môn lịch sử, giáo dục công dân; đẩy mạnh học tập suốt đời theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực gắn với việc làm hàng ngày của mỗi người dân.
Năm là, phát triển các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,... đến ưu tiên sử dụng hàng hóa được sản xuất trong nước, các việc thiện nguyện, các hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường... Yêu nước là giữ gìn hình ảnh đất nước trong con mắt bạn bè quốc tế; xây dựng và phát huy tự hào dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Cần lấy tinh thần yêu nước là điểm chung trước hết để xây nên khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng chính sách khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh. Tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy tài năng, trí tuệ, phẩm chất, giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; có cơ chế đào tạo, trọng dụng nhân tài; khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung…
Sáu là, tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc bằng các giải pháp: quan tâm, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân để nhân dân được ấm no, hạnh phúc, yên tâm, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho nhân dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước…
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. mấu chốt là xây dựng con người, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước thật sự liêm chính, “vừa hồng vừa chuyên”. Đây là vấn đề căn cốt, gốc của mọi vấn đề. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, Người nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, để có cán bộ tốt, thì công tác cán bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Công tác cán bộ là một nhiệm vụ then chốt của các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu: lựa chọn, đào tạo, huấn luyện, đánh giá, sử dụng và chính sách cán bộ. Đó là các khâu liên hoàn, nếu làm không tốt bất cứ một khâu nào, đều ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ và thành quả cách mạng. Do đó, ngày nay vẫn tiếp tục trả lời cho được những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra như: “Cần phải biết huấn luyện cán bộ” như thế nào? “Cần phải biết dạy cán bộ” ra sao? “Cần phải biết lựa chọn cán bộ” hay “Cần phải có chính sách cán bộ” sao cho đúng đắn, phù hợp..., để tạo ra đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” ngang tầm nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ - lực lượng kế cận, rường cột của nước nhà, việc giáo dục lòng yêu nước phải thấm nhuần yêu cầu “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”, để mỗi người trở thành người công dân có tài và có đức, kiên định và tiếp tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa, quốc tế hóa với các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đa chiều, càng cần tăng cường thực hiện giáo dục ý thức dân tộc, lòng yêu nước trong thế hệ trẻ một cách bài bản, có hệ thống.
Ngày nay, hội nhập quốc tế là xu thế chủ đạo, giúp các nước giao lưu phát triển kinh tế, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực cho phát triển. Qua quá trình giao lưu kinh tế, các quốc gia học hỏi nhau được rất nhiều nhưng cũng từ đó mà khiến những đặc trưng, giá trị văn hoá truyền thống ở từng quốc gia, khu vực dần mai một. Thúc đẩy thế hệ trẻ hội nhập nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc, để mỗi người vẫn là một hạt nhân của giá trị văn hóa dân tộc, và là một chủ thể trong việc lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam ra thế giới là một đòi hỏi cấp bách và lâu dài. Gần đây, báo chí có đăng tải bài viết về cơ thủ Trần Quyết Chiến khi tham gia giải đấu Billiards tại Thượng Hải - Trung Quốc. Tuy nhiên trong ngày thi đấu, trận đấu giữa Trần Quyết Chiến và đối thủ đã bị lồng ghép hình ảnh "đường lưỡi bò" trên sóng truyền hình. Khi nắm thông tin, cơ thủ Quyết Chiến đã bỏ giải trở về Việt Nam ngay khi thấy có hình ảnh ảnh hưởng đến chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Hành động của cơ thủ Trần Quyết Chiến rời giải, thể hiện thái độ cứng rắn với hành vi quảng bá hình ảnh vi phạm chủ quyền biển đảo từ phía Trung Quốc đã được đại diện sở Văn hoá và du lịch TP.HCM đánh giá cao, cộng đồng những người chơi billiards cũng đánh giá cao ý thức tự tôn dân tộc, lòng yêu nước của VĐV Việt Nam. Hay một ví dụ xa hơn, là thời điểm đất nước láng giềng Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép trong vùng lãnh hải chủ quyền Việt Nam vào tháng 5/2014, có thể nói HD 981 chính là một “công tắc đẩy” kích hoạt lòng yêu nước của người Việt Nam trong và ngoài nước bùng lên mạnh mẽ, từ đồng bằng đến miền núi, từ làng biển đến trung du, đâu đâu cũng một lòng sục sôi. Khi đó mọi sự chú ý đều hướng về Biển Đông, dường như cả quân đội chính quy và đội quân dự bị đều đã sẵn sàng, đến những người lính già - những chứng nhân lịch sử đã đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, chống lại chế độ diệt chủng Polpot Khmer Đỏ và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc - đều đã sẵn sàng “…chúng nó đến đi để tao đánh trận đánh cuối cùng của đời tao”. Nhưng nhờ tài ngoại giao, sách lược đối ngoại vừa cứng rắn, vừa khéo léo, mềm dẻo của Đảng ta và tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, cuối cùng đã không có tiếng súng nào phải nổ ra.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập về văn hóa luôn có tác động đa chiều, cả những giá trị tiến bộ, tích cực và những phản tiến bộ, tác động tiêu cực, dẫn đến những hiệu ứng xã hội khác nhau cho đất nước. Hậu quả tác động tùy thuộc chủ yếu vào cách tiếp cận, sàng lọc. Mặt tích cực là toàn cầu hoá có thể cung cấp góc nhìn phong phú, đa diện, làm gia tăng sự hiểu biết, mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, trong khi khía cạnh tiêu cực là tác động của hội nhập văn hóa trong toàn cầu hóa có thể làm suy yếu tinh thần quốc gia và mai một sự tồn tại của bản sắc văn hóa từng đất nước. Do đó, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc ở người trẻ là vô cùng quan trọng, giúp duy trì các giá trị văn hóa của đất nước ta, bất chấp sự xâm nhập của các giá trị văn hóa từ bên ngoài.
Trong quá trình phát triển của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và tổ chức của Đoàn thể đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn và định hình phong cách sống, tư tưởng và trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam. Trong đó, sinh viên là những thanh niên ưu tú, giàu tri thức và sáng tạo với ước mơ và hoài bão lớn. Họ là những người đứng trước cánh cửa của tri thức và học vấn, đã và đang trang bị cho mình kiến thức chuyên môn và kỹ năng cần thiết để đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Các cấp Đoàn, Hội Thanh niên ở các ngành, lĩnh vực, các địa phương trong cả nước đã quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác thanh niên. Nội dung phương thức hoạt động của các tổ chức thanh niên ngày càng đa dạng, sáng tạo, phù hợp với nhu cầu thực tế và nguyện vọng của tuổi trẻ.
Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường, kinh tế - xã hội đối diện với nhiều khó khăn và thách thức, những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra và nhấn mạnh vẫn đang tồn tại, đó là sự tụt hậu về kinh tế so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cũng như nguy cơ “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch. Trong khi đó, một số người trẻ thờ ơ trước những thách thức, khó khăn của đất nước và một số khác bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật. Một bộ phận người trẻ thiếu ý thức rèn luyện lập trường chính trị; sống ích kỷ, thực dụng, theo xu hướng tiêu cực. Không những vậy, phong trào thanh niên ở một số nơi chưa được triển khai hiệu quả. Một số tổ chức Đoàn, Hội thanh niên ở cơ sở; công tác định hướng dư luận trong tuổi trẻ chưa được quan tâm đúng mức. Các hoạt động thúc đẩy tạo môi trường thuận lợi cho thanh niên học tập, lao động sáng tạo chưa có sự đột phá trong việc khơi dậy sức mạnh và tiềm năng của họ. Những thách thức thực tế đó đặt ra đòi hỏi đoàn thể cần triển khai nhiều biện pháp quyết liệt, đồng bộ để định hướng và đồng hành cùng thanh niên trong việc rèn luyện kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội; tham gia các hoạt động tình nguyện, sáng tạo, hội nhập và nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
Yêu nước là trách nhiệm của tất cả mọi người sống trong một quốc gia. Người dân mỗi quốc gia dân tộc luôn mang tinh thần yêu nước và người trẻ là một bộ phận quan trọng. Để khơi dậy tình yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam, cần làm ngay từ những hoạt động nhỏ nhất, và cần bắt đầu từ sớm nhất bởi một hạt giống sẽ phát triển thành một cây to lớn chỉ khi nó được chăm sóc đúng cách ngay từ đầu. Chủ nghĩa yêu nước vốn là sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất của đạo lý làm người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời sống văn hóa của nhân dân ta. Điều đó đã được thể hiện trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Như người học trò của Bác - TBT Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu:’’… nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện; cố gắng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xứng đáng là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời của một bài hát: "Nếu là hoa hãy là hoa hướng dương; nếu là chim hãy là chim câu trắng; nếu là đá hãy là đá kim cương; nếu là người hãy là người cộng sản!". Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ty tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người mang lại hạnh phúc cho nhân dân!"; "Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép trở nên không hề biết sợ!",... và lời thơ của nhà thơ Tố Hữu: "Còn một giây, một phút tàn hơi; Là vẫn còn chiến đấu quyết không thôi!"./.