Tuyển than Hòn Gai

https://tuyenthanhongai.vn


Búa Liềm vàng 2025: Học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Tác phẩm "Học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng" của tác giả Nguyễn Thị Minh Khuê (chi bộ Sàng tuyển. Trân trọng giới thiệu tới độc giả. (Vì tác phẩm còn dài nên sẽ được đính kèm file pdf)
Búa Liềm vàng 2025: Học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công” - Câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ giữa thế kỷ XX đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết không chỉ là bài học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống ngàn đời của nhân loại, mà còn là cội nguồn làm nên những thành tựu vĩ đại của xã hội loài người. Điều này đặc biệt đúng trong lịch sử cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua. Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đã và đang thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị; sáp nhập các đơn vị hành chính, “sắp xếp lại giang sơn”, tổ chức không gian phát triển bền vững cho đất nước, tinh thần đoàn kết càng phải được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Với tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng, chúng ta kiên quyết giữ vững và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là “mạch nguồn”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, bảo đảm mọi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước được thực hiện triệt để, nhất quán, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất mọi nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Cách đây tròn 80 năm, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào và sự chứng kiến của bạn bè quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
ntmk
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.
Tròn 80 năm kể từ ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua nhiều bước ngoặt trọng đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã làm nên những thắng lợi vĩ đại, biến một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thành một đất nước có cơ đồ vững mạnh, tươi sáng, vị thế và uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao. Nhìn lại chặng đường 80 năm vẻ vang, chúng ta càng thêm tự hào, trân trọng những thành quả đạt được trong việc thực hiện mục tiêu và sự nghiệp cao cả: Một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ có tính quy luật, nhu cầu tồn tại, phát triển tự thân của Đảng, để Đảng không ngừng hoàn thiện năng lực lãnh đạo, tăng sức chiến đấu, ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khơi dậy bản chất tốt đẹp, khẳng định năng lực cầm quyền... Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng Đảng chân chính, vững mạnh, thường xuyên cảnh báo nguy cơ, biểu hiện tha hóa của một đảng cầm quyền, từ đó nhấn mạnh, Đảng phải luôn biết tự chỉnh đốn và thường xuyên tự chỉnh đốn: “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình...; Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài”. Việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của quá trình thống nhất biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề, điều kiện của nhau; trong xây dựng Đảng có chỉnh đốn Đảng và bản chất của chỉnh đốn Đảng để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lực lượng lãnh đạo cách mạng, mà còn phải là một tổ chức tiên phong, mẫu mực về đạo đức, văn hóa và trí tuệ, xứng đáng với vai trò và trọng trách trước dân tộc. “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” vừa là bản chất, phẩm cách, vừa là mục tiêu phấn đấu, là đích hướng tới và kết quả của quá trình xây dựng gắn liền với chỉnh đốn Đảng.

Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp luận mác-xít trên hành trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, kết hợp với thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ương đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”. Trong “Bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Khẳng định này của Người  được thể hiện qua một số khía cạnh chính:
Thứ nhất, nền tảng đạo đức của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm gốc, đạo đức cách mạng là yếu tố cốt lõi. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin... Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng”. Cùng với tính khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin mang tính nhân văn sâu sắc, là hiện thân của chủ nghĩa nhân đạo mác-xít, sáng ngời phẩm chất đạo đức mới, là học thuyết giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, giải phóng loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột. Bởi vậy, Người khẳng định, Đảng phải có “chủ nghĩa làm cốt” để vững mạnh, đồng thời yêu cầu mang tính “sống còn” là “trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” chủ nghĩa Mác - Lê-nin và “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”, có đạo đức.
Đạo đức cách mạng là gốc của đảng cách mạng. Đảng cách mạng phải là thực thể chính trị hội tụ lương tâm, phẩm giá đạo đức trong sáng, mới tạo dựng được lòng tin và sự ủng hộ của nhân dân, trở thành cơ sở chính trị - tinh thần - xã hội bảo đảm vị thế cầm quyền của Đảng; “nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”, có nghĩa Đảng tự tạo ra nguy cơ đánh mất mình, mất vị thế lãnh đạo, địa vị cầm quyền của Đảng. Hơn thế, đạo đức của Đảng chính là hạt nhân, là sự mẫu mực để phẩm chất và hành xử đạo đức tốt đẹp lan tỏa trong hệ thống chính trị và xã hội; không giữ đạo đức khó giữ được tư cách là người lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức trong Đảng là đạo đức cách mạng. Đây là khái niệm đề cập đạo đức ở tầm cao hơn, rộng hơn, sâu sắc hơn, là sự kết hợp giữa tinh hoa truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam với đạo đức cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời tiếp thu chọn lọc và phát triển tinh hoa văn hóa, giá trị đạo đức vượt lên trên đối lập giai cấp. Đó là “... khuôn khổ đạo đức giai cấp. Một đạo đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp”. Yếu tố cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng chính là sự thống nhất về lợi ích giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Do đó, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; Đảng phải “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn phải “thanh khiết” và “vị công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận hai góc độ về đạo đức của đảng cầm quyền: đạo đức của toàn Đảng và đạo đức của mỗi đảng viên. Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đưa ra 23 điều “tư cách một người cách mệnh” và 12 tiêu chí phấn đấu của “Người cách mạng mẫu mực”, trong đó yêu cầu cán bộ tuân thủ theo phương châm “TỔ QUỐC TRÊN HẾT” ở mọi nơi và mọi lúc. Người tâm niệm: “Thờ dân tròn đạo hiếu, Thờ nước vẹn lòng trung”. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đạo đức của người cộng sản phải trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, sự tha hóa về đạo đức sẽ dẫn đến tha hóa về chính trị; xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân; cái gì trái với đạo đức cách mạng, với chủ nghĩa tập thể, với chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Đảng cần tuyên truyền, giáo dục và nhân rộng gương người tốt, việc tốt để tạo nên “một vườn hoa đẹp”. Người chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.
Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy, trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; song quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị tha hóa, biến chất, đi vào con đường ham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành, đấu đá quyền lực; lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá nhân, trá hình hay tinh vi mạo danh quyền lực của tập thể để thực hiện quyền lực cá nhân... Sự tha hóa quyền lực chính trị cũng chính là sự tha hóa đạo đức cách mạng, đạo đức làm người. Kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy, sự tha hóa, thoái hóa về quyền lực thường bắt đầu từ sự xuống cấp, băng hoại đạo đức; ngược lại, sự tha hóa về đạo đức nhất định dẫn tới sự thoái hóa, băng hoại về quyền lực.
Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống trong sạch, “phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước nhà, liên hệ chặt chẽ với quần chúng lao động, một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”. Cán bộ phải kiên trì, bền bỉ tu dưỡng suốt đời để chống đặc quyền, đặc lợi, tham ô, lãng phí, quan liêu, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, thói hư tật xấu,... coi việc rèn luyện đạo đức, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là “vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm”. Cán bộ, đảng viên phải nhất quán trong tư tưởng và hành động đạo đức vì ích quốc, lợi dân, luôn đi đầu trong phong trào, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân cao đẹp nhất của đạo đức cách mạng trong sáng, suốt đời không cầu danh lợi, không màng phú quý, chỉ tâm niệm được “đồng bào ủy thác” để nỗ lực phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân đến hơi thở cuối cùng. Người coi đạo đức là gốc, là hành động; Người là một tấm gương kiểu mẫu về thực hành đạo đức cách mạng, sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được biểu hiện đa dạng, phong phú, thấm đẫm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người, toả sáng trong mỗi việc làm, cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đối với mỗi con người - tất cả đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin vào khả năng cải tạo của con người, dù cho họ có nhất thời lầm lạc. Bằng hành động và ứng xử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta đạo lý làm người, phẩm cách của CON NGƯỜI.
Thứ ba, Đảng là “con nòi” của nhân dân, xuất thân từ giai cấp lao động, gắn bó mật thiết với nhân dân, mọi quyết sách đều lấy nhân dân là trung tâm, vì hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân mà phấn đấu. Đảng ra đời từ quá trình cách mạng của quần chúng và trưởng thành trong quá trình lãnh đạo nhân dân. Cho nên, bài học lấy dân làm gốc, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân luôn được lãnh tụ Hồ Chí Minh đặt ra trong mọi giai đoạn cách mạng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ ta là cội nguồn sức mạnh, giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Đạo đức của Đảng thể hiện ở mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”.
Mưu cầu tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân chính là chuẩn mực đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng”. Đối với một đảng mác-xít chân chính, “hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”.
Thứ tư, Đảng tiêu biểu cho trình độ, lương tâm và danh dự của dân tộc. Đảng ta ra đời từ sứ mệnh lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh chống thực dân, đế quốc và tay sai, chống ách áp bức tàn bạo, giành độc lập và thiết lập chính quyền nhân dân. Đảng là một tổ chức cách mạng, là lực lượng tiên tiến và tinh hoa của xã hội, kiên quyết, kiên trì phá bỏ lạc hậu, cải tạo xã hội cũ, kiến tạo và xây dựng một xã hội mới, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí. Bản chất và mục tiêu tốt đẹp của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc; ra đời từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và là đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, giai cấp cách mạng, tiến bộ, hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến, có tính tổ chức, kỷ luật cao..., đặc biệt được vũ trang nền tảng tư tưởng tiến bộ, khoa học và cách mạng triệt để. Đó là hệ thống lý luận khoa học phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội được kế thừa từ tinh hoa nhân loại; trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp luận mác-xít trên hành trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tổ chức đảng sinh hoạt theo các nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng là tổ chức chân chính, trung thực, nhất quán vì độc lập cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào; Đảng không có mục đích tự thân “ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc”.
Thứ năm, phương thức lãnh đạo của Đảng khoa học, trí tuệ, dân chủ, văn hóa, tôn trọng pháp luật, tuân thủ pháp luật, phát huy sức mạnh tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương mở rộng biên độ tập hợp lực lượng rộng rãi “ý Đảng, lòng dân”, thu phục người có đức, có tài tham gia tái thiết, kiến thiết đất nước. Người đòi hỏi phương thức lãnh đạo trên cơ sở khảo nghiệm và đúc kết chiến lược cách mạng, đúng yêu cầu, phù hợp quy luật và đáp ứng khát vọng của nhân dân. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng...”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng...”. 3) Phải tổ chức sự kiểm soát...”. Người mong muốn: “Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Để hội tụ được trí tuệ sáng suốt, khoa học, Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nắm vững quy luật khách quan, khoa học để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất”, có tác động tới nhận thức, tình cảm, trí tuệ, góp phần rèn luyện, bồi đắp và nâng cao năng lực tư duy lý luận, niềm tin và thái độ chính trị, phẩm chất và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người lãnh đạo phải bồi đắp thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, có tình cảm cách mạng để nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo đúng định hướng, đúng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người chủ trương: “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên... Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân... Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân”. Chú trọng phát huy trí tuệ tập thể và khuyến khích đổi mới sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý và lao động, sản xuất vì lợi ích chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao văn hóa chính trị và trách nhiệm cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải có tư duy biện chứng, thật sự là “công bộc của dân”; “nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành”, “không cần nói nhiều, mà làm cho thật nhiều”, “muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn”, tránh “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”. Đảng phải kiên quyết cự tuyệt thói cơ hội, hẹp hòi, cục bộ, bảo thủ, “kiêu ngạo cộng sản”, quan liêu, hách dịch, đặc quyền, chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, bệnh hiếu danh, bệnh óc lãnh tụ, dối trá, lừa gạt, tiền hậu bất nhất, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo... Cán bộ lãnh đạo phải thể hiện tính thống nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật, dân chủ; thẳng thắn tự phê bình và phê bình, nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa.
Thứ sáu, xây dựng và phát triển xã hội văn minh, tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và lãnh đạo “xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Người đã chuẩn bị tiền đề cốt yếu, đặt nền móng cho việc xây dựng và hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp trên cơ sở kiên định về mục tiêu, nguyên tắc, linh hoạt về sách lược và cách thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tâm huyết cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, chính sách xã hội và con người; chú trọng phát triển công nghiệp hóa nước nhà, để “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”. Tuy nhiên, Người căn dặn, không phải cứ ngồi chờ là sẽ có một xã hội tươi vui, mà phải nỗ lực học tập, trau dồi tri thức, “làm cho sáng kiến, kinh nghiệm chung ngày càng dồi dào, trình độ tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật chung ngày càng nâng cao”. “Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới”.
Với nền tảng lý luận và thực tiễn vững chắc trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng ở ý tưởng, ở khát vọng, mà hoàn toàn có thể hiện thực hóa với phương thức và biện pháp phù hợp. Là đảng cầm quyền, Đảng ta phải có bước đi, lộ trình, tổ chức, biện pháp phù hợp với điều kiện của Việt Nam; lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay thế cho điều kiện thực tế”. Nâng cao ý thức cho mỗi cán bộ, đảng viên về trách nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và phải khơi dậy khát vọng xây dựng và phát triển đất nước cho mỗi người dân.
Đặc biệt, chú trọng việc cải tiến, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, bởi khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Người chỉ rõ: “Dân tộc tiến lên, cán bộ cũng phải tiến lên. Cán bộ phải tiến trước để đưa dân tộc tiến lên mãi”.

 

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Khuê

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây